Mẹ chồng ra chợ Long Biên mua hoa quả nẫu về làm tráp hỏi cưới con dâu nhà quê

0
387

Ngày Minh bảo “mẹ ơi, con muốn cưới Thảo”, bà Hường không gật cũng chẳng lắc. Bà chỉ đặt cái bát xuống, tiếng sứ chạm vào mặt bàn gỗ nghe cạch một cái khô khốc. Ông Quang – chồng bà – nhìn sang, khẽ nhíu mày như muốn nói: “Từ tốn.” Còn Minh, vốn là thằng trai ngoan, lúng túng thêm một lời:
– Con… con nghiêm túc. Bọn con quen nhau gần hai năm.
– Nhà nó ở đâu? – bà Hường hỏi, giọng đều.
– Làng Đông, ngoài đê sông Đáy.
– Làng Đông? – Bà nhắc lại, khoé môi hất nhẹ. – Làng ấy tao đi qua vài lần. Nghèo rớt mùng tơi, ruộng lúa sát mép đường.

Minh im. Cậu biết mẹ mình thẳng tính, quen nhìn người qua bề ngoài. Cậu đã về nhà Thảo một lần – đúng hôm mưa lâm thâm. Căn nhà cấp bốn ở mé bên trái cổng làng cũ kỹ, tường quét vôi bong tróc, mái ngói nghiêng, mưa dột, hai chân tường rêu xanh. Nhưng điều Minh nhớ không phải thế. Cậu nhớ lúc đứng tựa hiên, nghe tiếng bà mẹ của Thảo gọi con gái: “Thảo ơi, vào đây con”, trong giọng đó có cái ấm của lửa rơm.

Bà Hường thì không. Bà nghe đâu nhà gái nghèo, vậy là trong đầu đóng đinh một chữ: “Kèo dưới.” Bà vốn là quản lý một công ty vật liệu xây dựng, quen đối tác lớn, dự tiệc sang; bà ghét cái nghèo luộm thuộm của thôn quê. Trong bữa cơm hôm ấy, bà chốt:
– Được, cưới. Nhưng lễ lạt phải gọn. Nhà họ nghèo, đừng bày vẽ tốn kém.

Minh mở miệng định nói về “lễ nghĩa” nhưng ông Quang chạm nhẹ chân con dưới gầm bàn. Ông hiểu vợ: càng cãi, bà càng găng.

1. Mẹ chồng và những mâm tráp

Sáng sớm một ngày gần Tết, bà Hường gọi con dâu tương lai qua nhà “thử việc” – tức là phụ bà chọn đồ cưới. Thảo đến, áo len màu be, tóc buộc cao, mắt hiền.
– Con chào bác ạ.
– Ừ, ngồi đi. – Bà Hường chỉ chiếc ghế. – Bác nói thẳng, nhà con nghèo thì nghèo, cứ chân thật. Cưới xin lằng nhằng chỉ khổ cha mẹ.

Thảo khựng một giây, rồi gật:
– Dạ, nhà con bình thường. Nhưng chuyện cưới xin, bố mẹ con dặn phải làm tròn lễ.
– Tròn vừa thôi. – Bà cười mỉm, nhưng khóe mắt lạnh.

Hôm bàn chuyện tráp, bà Hường bảo:
– Tráp hoa quả, bánh kẹo, chè, rượu, thuốc lá… ừ, truyền thống là thế. Nhưng làm vừa. Hôm mưa lần trước mẹ con đón chúng ta bằng ấm trà, cái kẹo vừng thôi là biết rồi. – Bà lơ đãng nhìn móng tay sơn nude. – Để tao lo.

Bà quyết tự tay sắm. Không đặt từ các cửa hàng cưới chuyên nghiệp – tốn tiền. Bà bảo Minh:
– Mẹ lên chợ Long Biên mua. Quả gì cũng có, rẻ mà tươi.
Minh nói:
– Hay mẹ đặt tráp chuẩn, cho đàng hoàng…
– Đàng hoàng với ai? – Bà bật cười. – Với nhà nghèo mà bày vẽ làm gì.

Tối trước ngày đi hỏi, 2 giờ sáng bà dậy, mặc chiếc áo khoác dạ be, xách túi vải to, gọi chị giúp việc đi cùng. Chợ Long Biên lúc ấy vẫn sáng hắt như một dòng sông ánh đèn. Người xe tấp nập, tiếng gọi í ới. Mùi trái cây chín xen kẽ mùi hoa tàn, mùi ẩm của bìa carton ướt.

Bà Hường rảo bước, nhắm mấy sạp lề đường: “Quả dập người ta bỏ, gom vào làm nước ép, rẻ bằng nửa.” Bà chọn những chùm nho phơn phớt trắng đã nhũn vài quả; những trái táo Mỹ hơi sẫm màu; xoài da lốm đốm; táo tàu héo.
– Cô ơi, loại này… – chị giúp việc ngập ngừng.
– Về gói lá đỏ, ai nhìn cho kỹ mà biết. – Bà liếc.

Bánh kẹo, bà ghé quầy bán sỉ: mấy thùng kẹo không nhãn tiếng Anh, vài gói bánh in loại rẻ, trà túi lọc không thương hiệu. Chị giúp việc lại ngập ngừng:
– Hay mình mua loại tốt hơn cho ra thể diện…
– Thể diện để làm gì? – Bà đáp, như cắt gọn một sợi chỉ.

Đến khi về, bà gọi dịch vụ bưng tráp chỉ để “bưng cho có người” – còn mọi thứ bà tự xếp. Bà tỉ mỉ cắt những quả dập, xoay mặt đẹp lên, dùng khăn giấy thấm bớt nước; dùng xi đánh bóng vỏ táo. Bà ưng ý.
– Thế này là phải đạo. Họ nghèo, tráp nhiều lại càng mang tiếng phô trương – bà nói, tự tin như vừa làm một việc thiện.

Minh nhìn những mâm quả, lòng chùng xuống. Cậu gọi cho Thảo.
– Mai bọn mình sang sớm nhé. Em đừng… đừng lo gì cả.
Đầu dây bên kia Thảo cười, tiếng cười mỏng như tơ:
– Em chỉ mong hai nhà vui vẻ. Anh nói với bác đừng ngại, nhà em tiếp đón được.

2. Đường về làng Đông

Sáu giờ sáng, đoàn xe xuất phát: hai xe bảy chỗ, một xe tải nhỏ chở tráp. Bà Hường ngồi ghế đầu, áo dài xanh cổ vịt, tóc uốn gợn, cổ đeo chuỗi ngọc trai. Ông Quang điềm đạm bên cạnh. Minh lái xe thứ hai, phía sau là họ hàng nhà trai, ai cũng áo dài đỏ, mặt mũi hồ hởi.

Trời cuối đông, sương rơi mỏng trên mặt đê. Qua khỏi cây cầu nhỏ, gió sông thổi phả lạnh râm ran. Bà Hường kéo cửa kính lên, làu bàu:
– Đường gì lổn nhổn đá. Cưới ở quê khổ.

Đoàn xe dừng đầu ngõ Làng Đông. Con ngõ rải bê tông, hai bên là hàng cau thẳng, mùi hoa bưởi thoang thoảng. Mấy đứa trẻ chạy theo xe nhìn người lạ, cười khanh khách. Bà Hường cau mày:
– Dừng đây. Để xem nhà cửa thế nào.

Bà định nói thêm câu “kẻo vào lát lại giày bẩn bùn” – thì đứng chết lặng.

Ngay đầu kia của ngõ, vượt qua luỹ tre, một căn biệt thự hai tầng mái dốc hiện ra, sơn trắng vân đá, bao quanh là vườn hồng ngoại xén tỉa gọn gàng, hiên gỗ lim, khung cửa kính lớn mở ra một phòng khách sang trọng. Trên cổng là biển gỗ khắc chữ “Nhà Vũ Thảo – Vũ Lâm”. Chữ thép “1936 – 2021” nhỏ phía dưới.

Bà Hường ngoảnh nhìn chị giúp việc, tưởng mình hoa mắt.
– Đây… đây là đâu?
Chị giúp việc lắp bắp:
– Dạ… nhà gái… nhà cô Thảo…

Cả đoàn nhà trai lặng đi. Mấy bà cô rì rầm: “Ôi giời ơi, tưởng nghèo… to nhất làng đây rồi.” Ông Quang quay sang vợ, khóe miệng nhếch nhẹ: “Bình tĩnh.” Minh nhìn qua kính xe, thấy Thảo vừa bước ra cổng, áo dài trắng thêu hoa sen, tóc vấn đơn giản. Em mỉm cười, cúi đầu chào đoàn.

Bên trái căn biệt thự, sát hàng cau, một căn nhà cấp bốn cũ kĩ hiện lên – đúng cái Minh từng thấy: mái ngói rêu, bờ tường nứt. Trước hiên, chiếc xe cút kít cũ dựng nghiêng, bên trong đặt cái cối xay lúa cổ. Trên đòn tay treo chiếc đèn dầu đen khói.

Bà Hường nuốt nước bọt. Bà cảm thấy bàn tay mình – bàn tay từng chọn những trái nho nhũn ở Long Biên – bỗng lạnh toát.

Từ trong sân, ông Lâm – bố Thảo – ra đón, dáng người thư thái, áo dài the đen, giày da mềm, mắt hiền. Cạnh ông là bà Vũ – mẹ Thảo – mặc áo dài gấm xanh nhạt, cổ cài trâm bạc. Ông cúi mình:
– Dạ, mời quan viên nhà trai vào dùng trà.

Bà Hường chợt nhớ đến những mâm tráp của mình. Mồ hôi rịn mặt. Bà quay phắt sang cậu trưởng bưng tráp:
– Đợi! Đợi đã!

Nhưng đã muộn. Cả làng xúm lại xem, tiếng xì xào nổi lên khi lớp giấy điều đỏ được gỡ, lộ những trái xoài lấm chấm, táo bóng mỡ mà cứng như sáp, chùm nho héo. Mấy cô gái bưng tráp nhà gái nhìn nhau, rồi đưa mắt sang Thảo. Thảo chỉ khẽ gật đầu. Cô bước tới, cúi chào, đỡ mâm tráp bằng hai tay, giọng nhẹ:
– Dạ, xin nhận lòng thành nhà trai ạ.

Lòng thành. Hai chữ ấy rơi xuống như mũi kim, đau lạnh nơi gáy bà Hường. Bà cảm thấy tiếng cười khẽ của vài người đàn bà trong xóm như mũi dao lách vào lòng tự ái của mình.

3. Căn nhà kỷ niệm

Sau màn chào hỏi, mọi người vào phòng khách. Căn phòng sàn gỗ bóng loáng, tường treo tranh mực tàu, một tủ sách lớn cao đến trần. Trên bàn trà là bộ ấm chén gốm men lam, bốc khói thơm mùi sen.
Ông Lâm mời trà.
– Dạ, nhà quê thô mộc, mong nhà trai coi như nhà mình.

Bà Hường cười gượng. Bà đỡ tách trà, tay run. Ông Lâm hỏi thăm chuyện làm ăn, chuyện cưới. Ông Quang đáp lễ chuẩn mực. Còn bà, cứ nhìn ra cửa sổ – nơi căn nhà cấp bốn đứng lặng. Ánh nắng sớm xuyên qua giàn hoa giấy cũ, lung linh bụi.

Không chịu nổi, bà hỏi:
– Ông bà… căn nhà kia… còn để làm gì vậy?

Bà Vũ mỉm cười:
– Nhà kỷ niệm đấy ạ. Nhà này chúng tôi mới xây ba năm trước, sau khi con gái đi làm có tiền. Còn căn kia là nhà cụ nội – xây từ năm ba sáu. Chồng tôi bảo, “đập đi thì phí cái tuổi thơ.” Nên thôi, để đấy, mùa hè mùi rơm còn đọng.

Bà Hường cảm thấy như ai đó bóp tim mình. Bà nhìn mâm tráp hoa quả đặt trên bàn góc – loại quả mà bà vừa nâng niu xoay mặt đẹp lên. Trong căn nhà này, mâm tráp ấy giống như đứa trẻ quê lỡ tay bước vào phòng triển lãm. Bà chợt nghe tiếng trưởng họ nhà gái hắng giọng:
– Tráp nhà trai chuẩn bị chu đáo quá. Tụi trẻ chụp ảnh đi.

Chu đáo. Bà biết họ đang giữ mặt mũi cho nhau. Minh nhìn mẹ, ánh mắt lộ vẻ lo. Bà Hường quay đi.

Lúc trao trầu cau, trời bất chợt chuyển mưa. Mưa mỏng như tơ, hạt rơi kẽo kẹt trên mái hiên gỗ. Thảo dắt mẹ chồng tương lai ra sau nhà tránh mưa. Ở đó, bà Hường nhìn gần căn nhà kỷ niệm – tường loang, cửa gỗ mòn tay nắm, trên bậc thềm có khắc mấy nét bút chì, hình cây dừa và chữ “Thảo – 7 tuổi” nguệch ngoạc.

Bà Vũ bảo:
– Hồi nhỏ, nó với anh trai vẫn ngủ ở đây. Tối hè, hai đứa đếm sao qua lỗ thủng mái ngói. Hôm nhà mới xây xong, nó ôm cột nhà cũ, bảo “đừng đập, để con còn nghe mùi mùa hè”.

Bà Hường thở ra. Gió mưa táp vào má mằn mặn. Bà lần đầu thấy những đường nhăn trên khuôn mặt bà Vũ dễ thương đến thế, như vân gỗ cũ. Bà nghe tiếng mình nói, nhỏ đi:
– Tôi… tôi hiểu rồi.

4. Cơn đỏ mặt

Bữa tiệc bắt đầu. Đầu bếp trong làng bày những mẹt nem tai, gà hấp lá chanh, xôi vò, cá sông nướng rơm. Ông Lâm mở một chai vang đỏ, rót mời bên nội.
– Rượu này con Thảo mang từ Đà Lạt về. Nó bảo bố uống cho ấm.

Tiếng cười nói xôn xao. Bà Hường ăn như nhai lửa. Bà nhìn Thảo – cô gái áo dài trắng nhẹ như đám mây – đang ghé tai bà Vũ thì thầm điều gì rồi cười. Bỗng Thảo quay sang bà Hường:
– Bác ơi, sau bữa, bác qua căn nhà nhỏ kia với con nhé. Con muốn bác xem một thứ.

Bà gật. Tim đập, không hiểu vì ngại hay vì mong manh nào đó.

Sau bữa, Thảo đưa bà Hường đến căn nhà cũ. Căn nhà mát râm; mùi vôi tường hôi hôi thoang thoảng mùi nhang trầm. Trên tủ gỗ nhỏ có đặt một khung ảnh đen trắng: một người đàn ông mặc bộ đồ công nhân xây dựng đang đứng trên nóc một căn nhà dang dở, cười rạng rỡ.
– Ông ngoại con. – Thảo nói. – Ông làm thợ cả cả đời, mơ xây cho con cháu một căn nhà gạch tử tế. Mấy năm trước, con có tiền, mẹ bảo “xây đi cho ông vui.” Xây xong, ông mất. Mẹ nói, giữ lại nhà cũ để nhớ ông.

Bà Hường nhìn bức ảnh, bỗng nhớ chồng – ông Quang – từng là kỹ sư cầu đường một thời, cũng đi công trường rạc người. Bà nhớ thời trẻ vợ chồng sống trong căn phòng trọ 12 mét vuông mùi ẩm mốc, bữa cơm chỉ có cà dầm tương. Hồi ấy, ai hỏi, bà vẫn cười: “Đời mà.”

Có tiếng gọi ngoài sân:
– Mẹ ơi! – Minh.
Bà Hường quay lại. Thảo nhìn Minh, mắt dịu hẳn. Khoảnh khắc ấy, bà thấy đôi trẻ hợp nhau đến lạ.

Trong lúc chờ làm nghi thức xin dâu, bà Vũ bỗng đưa tay đỡ mâm tráp hoa quả mà nhà trai mang tới, cẩn thận nhặt từng quả héo, bỏ riêng vào cái làn mây nhỏ. Bà nói thản nhiên như chuyện thường ngày:
– Mấy quả này chắc họ bán sớm, bị dập. Để tôi bảo con bé đầu bếp làm mứt, đỡ phí.

Bà Hường nghe, đỏ mặt. Cơn đỏ không vì bị bóc mẽ – nhà gái tuyệt không mỉa mai – mà vì bà nhìn rõ chính mình: sự khinh mạn lười nghĩ, cái keo kiệt ẩn dưới danh nghĩa “giản dị, tiết kiệm”.

Bà đến bên bà Vũ, vội nói:
– Chị để em… em mang ra xe đổi mâm khác.
– Thôi, bận rộn rồi. – Bà Vũ cười hiền. – Cưới hỏi đâu phải vì mâm quả. Nhà tôi quý cái lòng của các cụ. Các cháu thương nhau là được.

Bà Hường nhìn người đàn bà kia, ngực thắt lại. Bà thốt:
– Chị ạ, thành thật xin lỗi.

Bà Vũ khựng một nhịp, rồi gật, tay vỗ khẽ lên tay bà Hường:
– Ối dào, cưới xin, ai chẳng có lúc sơ suất. Mình cười với nhau cho nhẹ.

5. Một việc làm muộn màng

Xe rước dâu chuẩn bị lăn bánh. Trước khi lên xe, bà Hường rời đoàn, lẳng lặng gọi điện cho cửa hàng tráp cưới lớn ở thị trấn:
– Chị ơi, làm gấp cho tôi một bộ tráp hoa quả loại đẹp nhất, bánh kẹo nhập, trà ô long ngon, rượu vang – giao đến cổng làng Đông trong một tiếng. Đúng, tôi trả tiền ngay, thêm phí gấp đôi.

Bà quay lại, nói nhỏ với ông Quang:
– Lúc lên đến nhà mình, mình thay tráp.
Ông Quang nhướng mày:
– Ừ.

Minh thấy mẹ bận rộn, ngạc nhiên. Bà không giải thích. Bà bước đến chỗ Thảo, cầm tay con dâu:
– Con gái, mẹ… xin lỗi con.
Thảo hơi bất ngờ, rồi mỉm cười:
– Mẹ đừng nói thế. Con về làm dâu mẹ, mọi chuyện từ từ rồi hiểu nhau.

Đoàn rước dâu rời làng trong tiếng pháo điện lách tách. Qua cửa kính, bà Hường ngoảnh lại: căn biệt thự trắng lùi dần, còn căn nhà cũ bé xíu ở cạnh vẫn đứng đó, như một dấu chấm câu dịu dàng ở cuối câu chuyện dài.

Khi về đến nhà trai, bộ tráp mới mười phần lộng lẫy đã chờ trước cửa: nho ruby căng mọng, dứa tỉa chim phượng, cặp táo Nhật đỏ ửng, rượu vang nắp bọc thiếc; bánh kẹo Ferrero, Haribo, trà ô long cao cấp. Bà Hường tự tay đặt vào bàn thờ gia tiên, thắp nhang, khấn khẽ:
– Con sai thì con sửa. Tổ tiên chứng cho lòng con.

Họ hàng trầm trồ. Minh nhìn mẹ, hiểu. Cậu nắm tay Thảo chặt hơn.

6. Lời xin cưới thứ hai

Tiệc cưới tại nhà trai xong, buổi chiều, bà Hường xin phép hai họ cho mình nói vài lời. Bà đứng trước sân, micro run trong tay:
– Hôm nay, thay mặt bên nhà trai, tôi… tôi muốn cảm ơn nhà gái đã tiếp đón rất tử tế. Và tôi xin nhận một cái lỗi.

Sân im lặng. Ông Quang nhìn vợ, mắt ấm. Bà Hường nói rõ từng chữ:
– Tôi đã tưởng… nhà gái nghèo, nên mua tráp qua loa. Tôi sai. Nghèo hay giàu không ở căn nhà cũ hay mới, không ở cái mâm cỗ hay trái nho. Nó ở… cách người ta giữ ký ức của mình. Nhà gái giữ một căn nhà cũ để không quên gốc, còn tôi thì quên mất điều đó. Tôi xin lỗi.

Một tràng vỗ tay dậy lên. Thảo rưng rưng. Bà Vũ đứng giữa đám đông, nhìn bà Hường mà cười, cái cười hiền khiến người khác muốn khóc.

Đến tối, bà Hường ghé phòng Thảo. Con dâu đang gấp gọn áo dài. Bà đặt lên giường một hộp gỗ.
– Quà mẹ cho con gái.
Thảo mở ra: bên trong là chuỗi ngọc trai của bà.
– Mẹ…
– Mẹ giữ đã lâu. Hôm nay mẹ biết con dùng được. Đồ đắt chỉ đẹp khi người đeo nó… không kiêu. – Bà mím môi, như tự trào chính mình. – Con đừng giận mẹ nhé.

Thảo ôm bà:
– Mẹ ơi, con chỉ mong nhà mình đừng hiểu lầm nhau nữa. Con lớn lên ở giữa hai căn nhà – một mới, một cũ – nên con biết: cái mới cho tương lai, cái cũ là trái tim.

Bà Hường khẽ gật, mắt cay. Bà tự hỏi: bấy lâu, bà chạy theo “thể diện”, “giản dị”, “hợp lý”… mà quên mất cái “trái tim” đó nằm ở đâu.

7. Ngày trở lại làng Đông

Một tuần sau, bà Hường gọi lái xe đưa mình về Làng Đông. Không báo trước. Không chủ đích lễ lạt. Bà mang theo một giỏ hoa quả đẹp nhất tự tay chọn từ cửa hàng tử tế, thêm một chiếc giỏ khác đựng bánh trung thu thương hiệu tốt – dù tháng Chín còn xa.

Cổng biệt thự mở. Bà Vũ đang phơi thảm trước hiên, thấy bà thì mừng rỡ:
– Ấy chết, chị chơi đường đột thế này. Vào nhà, vào nhà.
– Tôi xin phép… sang xin lỗi lần nữa. – Bà Hường cười, nụ cười nhẹ. – Và gửi lại… tráp tử tế. Lần trước tôi để con cái nhà chị phải… làm mứt.

Bà Vũ phì cười:
– Mứt ngon chứ bộ! – Bà kéo tay bà Hường. – Tôi pha trà sen. À, chị nghe Thảo kể chuyện chị đổi tráp ở nhà nội, tôi xúc động lắm. Người lớn mình, biết sai biết sửa – thế là quý.

Hai người đàn bà ngồi bên hiên gỗ, ngắm vườn hồng lấp lá. Bà Hường nhìn sang căn nhà cũ. Bà hỏi:
– Chị giữ nhà này lâu dài chứ?
– Ừ. Thỉnh thoảng tụi trẻ về nằm quạt nan nghe dế kêu, vui đáo để. Chị vào nằm thử đi, mát rượi.

Bà Hường bước vào. Trên chiếc bàn gỗ, bức ảnh ông ngoại Thảo cười như đang nhìn họ. Bà chạm tay lên bề mặt gỗ nhẵn, thở ra:
– Hóa ra giàu… là như thế này.

Bà quay ra, nói với bà Vũ:
– Tôi có ý này. Năm nay làm phúc xây lại cái giếng cổ phía sau sân, lát gạch cho chắc. Công ty tôi còn gạch granit loại đẹp. Tôi xin tài trợ.
– Ấy, ngại chết đi. – Bà Vũ đỏ mặt. – Nhưng nếu chị vui, tôi càng vui. Nhà cũ có giếng mới cũng xinh.

Họ cười. Gió sông thổi ngang hiên, mang theo mùi rơm và mùi trà.

8. Kết

Đám cưới xong, người ta kể mãi chuyện “nhà trai Long Biên” – ban đầu khinh thường vì tưởng nhà gái nghèo, mang tráp hoa quả gần hỏng, cuối cùng đỏ mặt trước căn biệt thự to đẹp nhất làng. Nhưng người ta kể thêm chuyện sau đó: mẹ chồng đã quay lại, tự tay đặt giỏ quả thơm, xin lỗi đàng hoàng; và tài trợ lát lại cái giếng cổ của nhà kỷ niệm.

Ở thành phố, bà Hường treo trong phòng làm việc một bức ảnh: trước căn nhà cũ bên căn biệt thự trắng, hai người đàn bà – một mặc áo dài gấm xanh, một mặc áo lụa be – đang cười. Bên dưới, bà chú thích bằng bút máy: “Giữ nhà cũ để khỏi lạc lòng.”

Một tối, Minh hỏi:
– Mẹ ơi, sao mẹ treo ảnh này ở đây?
– Để nhớ. – Bà xoa đầu con trai như hồi nó còn bé. – Nhớ rằng con dâu mẹ có hai căn nhà: một căn để ở, một căn để thương. Và mẹ, cũng nên giữ lại cho mình một căn như thế.

Minh cười, ôm mẹ. Ngoài kia, thành phố lên đèn, tiếng còi xe lẫn với tiếng gió chạy qua những tòa nhà cao. Ở một nơi xa hơn, con đường bê tông dẫn vào Làng Đông vẫn thơm mùi cau; căn nhà cũ bên hiên gỗ lim vẫn lặng lẽ sáng chiếc đèn dầu mỗi khi mất điện.

Ngày giêng hai, bà Hường lại về làng, bưng mâm ngũ quả đẹp bóng như mặt trăng, đặt lên bàn thờ. Bà khấn, giọng chậm:
– Con đến xin phép cụ, cho chúng con làm thông gia tử tế. Lần đầu con vụng, lần sau con sẽ khéo hơn.

Gió ào qua hàng cau, lá chạm vào nhau kêu xào xạc, như tiếng ai đó cười cho qua chuyện cũ. Trên tường, bức ảnh ông ngoại Thảo vẫn cười, còn bà Hường bỗng thấy lòng nhẹ như chưa bao giờ.

Trong căn nhà mới, Thảo bưng khay trà nóng ra hiên, nhón tay sửa lại chiếc trâm ngọc trai mẹ chồng tặng. Mẹ chồng – bà Hường – nhận tách trà, nhìn con dâu, nói nhỏ:
– Con gái, cảm ơn con đã cho mẹ một bài học.
Thảo mím cười:
– Bài học… có hai căn nhà.

Bà Hường gật. Ở nhà, ở thương. Ở hiện tại, ở ký ức. Bà chợt hiểu: giàu nghèo rốt cuộc không nằm ở mâm tráp, mà ở cái cách người ta đối đãi với quá khứ của mình.

Gió lại thổi, mang theo mùi hoa bưởi. Tiếng chim sẻ ríu rít trên mái ngói cũ. Hai người đàn bà ngồi cạnh nhau, giữa hai căn nhà – một rực rỡ, một rêu phong – và trong khoảnh khắc ấy, mọi hiểu lầm đã hóa thành câu chuyện để sau này kể lại cho cháu chắt nghe, bằng một nụ cười.